5 vụ siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại
12/09/2023Thế giới đã từng trải qua những vụ lạm phát phi mã tồi tệ nhất với tỷ lệ lạm phát lên tới hàng tỷ % và những đồng tiền với mệnh giá có tới 20 số 0.
Siêu lạm phát đầu tiên trên thế giới xảy ra vào thời kỳ Cách mạng Pháp thế kỷ 18 (1789 – 1799) lên mức 143%. Nhưng phải đến thế kỷ 20 lạm phát vượt tầm kiểm soát này mới trở lại.
Trong thế kỷ 20, thế giới chứng kiến 17 lần siêu lạm phát tại Đông Âu và Trung Á trong đó bao gồm 5 lần tại Mỹ – Latinh; 4 lần tại Tây Âu; 1 tại Đông Nam Á và 1 tại châu Phi.
Năm 2008, ông Steve H. Hanke, giáo sư kinh tế tại đại học Johns Hopkins University kiêm nghiên cứu viên tại viện CATO, nghiên cứu về tình hình siêu lạm phát tại Zimbabwe. Nghiên cứu của ông cho thấy siêu lạm phát nhìn chung thường đi kèm với chiến tranh, chính sách tài khóa kém hiệu quả. Tuy nhiên nguyên nhân trọng tâm vẫn ở cung tiền tăng trưởng quá nhanh mà không được hỗ trợ bởi tăng trưởng kinh tế.
1. Đức (1921 – 1923)
Nước Đức rơi vào lạm phát trầm trọng nhất vào hồi tháng 10/1923 khi tỷ lệ lạm phát lên tới 29.500%. Tại thời điểm 12/1923, người ta phải bỏ ra 4.200 tỷ mác (papiermark) để đổi lấy 1 USD.
Trong những năm 1920, người Đức đã phải dùng đến củi và than để thay thế cho đồng mác đã bị mất giá thảm hại do lạm phát. Lúc đó, dùng tiền để đốt thậm chí còn rẻ hơn so với củi và than.
Ban đầu, người ta cho rằng nguyên nhân của cuộc siêu lạm phát này là việc chính phủ Đức in quá nhiều tiền để chi tiêu cho chiến tranh. Nhưng nguyên nhân thực sự là chính phủ Đức quyết định vay mượn để chi trả chiến tranh. Năm 1919, giá cả gần như đã tăng gấp đôi, nước Đức thất trận. Khoản tiền bồi thường sau chiến tranh được quy định trong Hiệp ước Versailles buộc Đức phải trả bằng vàng hay ngoại tệ tương ứng thay vì đồng mác. Để mua được số ngoại tệ này, chính phủ Đức đã phải sử dụng đồng papiermark được đảm bảo bằng nợ chính phủ, vì vậy đã làm tăng tốc độ phá giá của đồng tiền.
Tình trạng càng trở nên tồi tệ hơn khi Đức không thể trả được các khoản nợ. Quân đội Pháp và Bỉ đã chiếm thung lũng Ruhr vào tháng 1/1923 để đòi Đức phải trả bằng hiện vật. Sự việc này đã nhanh chóng đẩy nền kinh tế Đức rơi vào lạm phát phi mã.
Để thoát khỏi tình trạng này, chính phủ Đức đã lập một ngân hàng trung ương đặc biệt và phát hành loại tiền tệ mới. Đồng rentenmark đã giúp bình ổn kinh tế Đức một cách khá hiệu quả.
2. Hy Lạp (1943 – 1946)
Tháng 10/1944, tỷ lệ lạm phát hàng tháng của Hy Lạp lên tới 13.800% và hàng ngày là 10,9%. Năm 1942, mệnh giá lớn nhất của đồng drachma Hy Lạp là 50.000, nhưng vào năm 1944, con số này lên đến 100 nghìn tỷ. Chính phủ Hy Lạp đã phải định giá lại đơn vị tiền tệ của mình và đổi đồng drachma cũ sang đồng tiền mới.
Thế chiến thứ 2 đã đẩy Hy Lạp vào tình trạng nợ nần chồng chất bởi chính phủ nước này không ngừng in tiền để trang trải cho những khoản chi phí. Những cuộc chiếm đóng của Đức và Italy đã khiến nền kinh tế Hy Lạp đình trệ, người dân mất lòng tin vào tiền tệ. Thậm chí ngân hàng trung ương nước này còn phát hành đồng xu franc vàng.
Để chấm dứt lạm phát phi mã, năm 1953, Hy Lạp đã gia nhập hệ thống Bretton Woods. Tổ chức này giúp ổn định tỷ giá, liên kết các loại tiền tệ quốc tế với đồng đôla Mỹ. Năm 1946, nước Anh đã đề xuất kế hoạch bình ổn cho Hy Lạp, bao gồm tăng doanh thu từ việc bán hàng cứu trợ, điều chỉnh một số thuế suất đặc biệt, cải thiện phương pháp thu thuế và thành lập một Ủy ban tiền tệ để chịu trách nhiệm các vấn đề về tài chính. Vào đầu năm 1947, giá cả được bình ổn, Hy Lạp chính thức thoát khỏi siêu lạm phát.
3. Hungary (1945 – 1946)
Tháng 7/1946, lạm phát hàng tháng tại Hungary hàng ngày là 207%. Khi đó, tờ tiền mệnh giá lớn nhất tại nước này có tới 20 số 0. Tình hình này trầm trọng đến nỗi chính phủ Hungary phải sử dụng một đơn vị tiền tệ đặc biệt được thiết kế cho trả thuế và bưu chính. Loại tiền này được điều chỉnh hằng ngày qua radio.
Sau đó, đồng pengo đã bị thay thế. Trong một lần tái định giá tiền, khi đó tổng giá trị của tất cả các tờ tiền Hungary đang được lưu thông ở nước này chỉ có giá trị bằng 1/1000 USD.
Chiến tranh chính là nguyên nhân của tình trạng lạm phát phi mã tại Hungary. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, nền kinh tế của Hungary đang rất yếu kém. Tuy nhiên, nước này còn mạnh tay áp dụng những chính sách bao cấp cho khu vực kinh tế tư nhân, gây ra tình trạng thâm hụt nghiêm trọng ngân sách. Để đáp ứng nhu cầu của ngân sách, tình trạng in tiền diễn ra ồ ạt.
Để giải quyết tình hình này, chính phủ Hungary buộc phải cho ra đời đơn vị tiền tệ mới – đồng forint – có thể quy đổi trực tiếp ra vàng và ra các ngoại tệ khác.
4. Trung Quốc (1948 – 1949)
Tháng 5/1949, tỷ lệ lạm phát tháng tại Trung Quốc là 21,78% và hàng ngày lên đến 11%. Khi đó, mệnh giá tiền tệ lớn nhất là 6 tỷ Nhân Dân Tệ.
Chính quyền dân tộc Trung Quốc không ngừng in tiền để chi trả cho cuộc chiến tranh với Nhật Bản và nội chiến chống lại lực lượng cộng sản của Mao Trạch Đông. Để thoát khỏi lạm phát phi mã, Trung Quốc đã phải định giá lại tiền tệ, 1 đồng Nhân Dân Tệ mới tương đương với 10.000 của đồng Nhân Dân Tệ cũ.
5. Chile (1973 – 1975)
Tháng 4/1974, lạm phát năm của Chile là 746,29%. Nguyên nhân là do tổng thống Salvador Allende đã thả nổi nền kinh tế quốc hữu hóa các công ty, mỏ dầu, đất động sản tư nhân. Kéo theo đó là việc hạ giá đồng escudos đã khiến nhu cầu đồng đôla tăng cao.
Khi ông Augusto Pinochet lên nắm quyền đất nước này đã thoát khỏi lạm phát. Ông đã cho bán các công ty quốc doanh và phát hành đồng peso mới.